Thứ Ba, 16 tháng 12, 2014

Hầm bảo quản tàu cá bằng vật liệu tiên tiến.

1. Đặt vấn đề
Đặc thù của nghề khai thác hải sản xa bờ là tàu khai thác thường đánh bắt ở những ngư trường cách xa bờ từ 1- 4 ngày đường, sản phẩm đánh bắt được không thể chở ngay vào bờ để tiêu thụ mà phải bảo quản dài ngày trên tàu. Để giảm chi phí, nâng cao hiệu quả chuyến biển ngư dân cố gắng kéo dài thời gian bám biển, hiện nay nhiều tàu cá xa bờ có chuyến biển kéo dài từ 2-3 tháng.
Hiện nay các tàu khai thác HSXB thường trang bị mỗi tàu từ 4-6 hầm bảo quản. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có được 1 hầm bảo quản có khả năng giữ nhiệt tốt để nước đá mang đi ít tiêu hao, có như vậy cá đánh bắt được ướp bằng nước đá có thể được bảo quản dài ngày trên biển.
Để đáp ứng đước yêu cầu này việc ứng dụng công nghệ đóng hầm bảo quản bằng vật liệu PU foam đang ngày càng trở nên cấp thiết.

2. Hầm bảo quản sản phẩm trên tàu cách nhiệt bằng công nghệ cũ
Hiện nay hầu hết các tàu đánh cá xa bờ của ngư dân đều sử dụng công nghệ bảo quản lạnh sản phẩm đánh bắt được bằng nước đá lạnh mang theo từ đất liền. Vì vậy vấn đề đặt ra là để bảo quản tốt sản phẩm thì khâu giữ nhiệt của hầm bảo quản đóng vai trò hết sức quan trọng.
Hầu hết các tàu đến nay vẫn dùng công nghệ đóng hầm bảo quản bằng vật liệu Styropore (xốp trắng) hoặc cao xu xốp đây là công nghệ cũ ngư dân đã ứng dụng từ lâu.
Ưu điểm của công nghệ này là giá thành hạ, người dân tự làm cho tàu mình.
Nhược điểm của công nghệ này là sau 3-4 năm xốp trắng bị ngấm nước thì tính năng cách nhiệt của các loại vật liệu này sẽ hết tác dụng.
Khi tiếp xúc với các tàu đóng hầm bảo quản bằng công nghệ cũ chỉ sau 3-4 năm đều bị tổn thất nhiệt rất lớn, cứ 3 ngày tổn thất 30% lượng nước đá trong hầm, 7 ngày hao hụt mất 50% lượng nước đá mang theo và 10 ngày thì hầu hết đá mang theo tan chảy hết.
Tàu khai thác hải sản xa bờ của nước ta hiện nay còn tổn thất nhiều sau thu hoạch tỷ lệ tổn thất này lên đến 25-30% (công bố của Tổng cục thủy sản).
Trong đó có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chính là do hầm bảo quản của ngư dân không đạt  tiêu chuẩn cách nhiệt.




3. Ứng dụng vật liệu PU Foams vào làm hầm bảo quản trên tàu cá
Đóng hầm bảo quản bằng vật liệu Polyurethane (PU foam) là công nghệ mới, ở những nước tiên tiến thì công nghệ này đã được ứng dụng rộng rãi còn ở nước ta thì đang ở giai đoạn mới bắt đầu.
Vật liệu PU Foam là nhựa tổng hợp dạng bọt cứng, được tạo thành từ hai loại chất lỏng chính bao gồm:
- Chất lỏng thứ nhất là Polyol.
- Chất lỏng thứ 2 là hỗn hợp các chất polymethylene, polyphenyl và Isocyanate.
Hai chất lỏng này nếu được phối trộn theo một tỷ lệ nhất định nhờ một thiết bị chuyên dụng chúng sẽ giãn nở tạo thành chất foam cách nhiệt rất tốt.

Công thức chính của PU như sau

Hình ảnh một PU đơn giản


Tính năng và ứng dụng của vật liệu Polyurethane:
- Ứng dụng trong công nghệ lạnh như tấm panel kho lạnh, bảo ôn các hầm lạnh, nhà máy bia, các bồn và đường ống lạnh v.v...
- Tỉ trọng: 22 - 200kg/m3 (dùng trong tàu cá tỷ trọng từ 55 – 65 kg/m3).
- Khả năng chịu nhiệt: - 60oC đến 80oC.
- Hệ số dẫn nhiệt: 0,019 – 0,023 W/m.k
- Chịu nén cao: 180 - 250 Kpa.
- Tính thấm nước < 3%
- Tuổi thọ từ 15 - 30 năm
Thi công làm hầm bảo quản bằng vật liệu PU foam trên tàu cá:
Để cách nhiệt hầm lạnh bằng vật liệu PU foam chúng ta tiến hành theo các bước sau:
- Đầu tiên chúng ta phải tạo khuôn để bơm PU.
- Khuôn được tạo thành bằng cách đóng thêm một lớp ván (ván dày từ 2-3 cm) phía trong hầm tàu để tạo thành các khoang trống với chiều dày khoảng 10-12cm bao quanh hầm tàu .
Sau đó tiến hành bơm 2 loại chất lỏng này vào khuôn bằng một máy bơm chuyên dụng.
Hai chất lỏng sẽ được máy phối trộn và phản ứng với nhau giãn nở để tạo thành một chất foams có tác dụng cách nhiệt.
Chất PU foam sẽ giản nở và lấp đầy các khoảng trống tạo thành một lớp PU foam dày từ 10-12 cm xung quanh hầm tàu.
PU foam sẽ bám chặt vào lớp ván vỏ tàu và lớp ván phía trong vỏ tàu tạo thành một khối vừa cứng, nhẹ, cách nhiệt, không thấm nước góp phần bảo vệ vỏ tàu được tốt hơn.
Lớp PU foam này vừa có tác dụng cách nhiệt, vừa có tác dụng tăng tính năng nổi của thân tàu và vừa bảo vệ tàu trong trường hợp tàu bị vỡ lớp ván phía ngoài vỏ tàu thì nước cũng không thể tràn vào trong khoang tàu.
Để đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, sau khi phun đầy PU foam vào khoảng trống ở xung quanh hầm bảo quản, chúng ta tiến hành bọc Inox 304 vào vách hầm để sản phẩm bảo quản không tiếp xúc với ván vỏ tàu cũng như với vật liệu PU foam.
Đồng thời hầm được bọc bằng Inox sẽ dễ dàng cho công tác vệ sinh sau mỗi chuyến biển.


Hiệu quả kinh tế khi ứng dụng vật liệu PU foam vào đóng hầm bảo quản
- Thi công nhanh (bơm PU foam mỗi ngày bơm được một tàu công suất từ 800-1000CV).
- Chất lượng bảo quản sản phẩm tốt, thời gian bảo quản tăng từ 7 ngày lên trên 20 ngày chất lượng vẫn đạt tiêu chuẩn xuất khẩu với tỷ lệ ướp đá là 1,5đá/1cá.
- Hầm giữ trữ nước đá với tỷ lệ hao hụt dưới 5% trong thời gian 20 ngày.
- Chủ động thời gian lấy đá. Ví dụ: vào những ngày 17-18 âm lịch hàng tháng tàu sẽ đồng loạt ra khơi và tất cả đều lấy đá vào ngày này dẫn đến thiếu đá và giá đá sẽ tăng lên. Trong khi tàu có hầm bảo quản bằng PU foam có thể lấy đá trước 2-3 ngày so với các tàu khác mà vẫn không bị hao đá.
- Khi tàu về bờ nếu bị ép giá tàu có hầm bảo quản tốt có thể chưa bán vội để một vài ngày sau khi các tàu khác bán hết giá cá nâng lên lúc đó bán được giá.
- Khi tàu chạy từ biển khơi vào bờ đối với tàu có hầm bảo quản tốt không cần phải chạy nhanh mà chỉ chạy tốc độ vừa phải (thấp ga) và sẽ giảm được chi phí nhiên liệu.
4. Kết luận:
Vật liệu PU foam là vật liệu tối ưu để ứng dụng vào hầm bảo quản sản phẩm trên tàu cá.
Nếu công nghệ này được ứng dụng rộng rãi thì tổn thất sau thu hoạch sẽ giảm xuống, hiệu quả kinh tế của các tàu xa bờ sẽ nâng cao.

Từ đó ngư dân an tâm bám biển dài ngày.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét